Phình động mạch chủ là gì? Các công bố khoa học về Phình động mạch chủ

Phình động mạch chủ (aneurysm) là một tổn thương của mạch máu, trong đó mạch chủ (artery) bị phình ra do một vết thương hay yếu tố di truyền. Đây là một tình tr...

Phình động mạch chủ (aneurysm) là một tổn thương của mạch máu, trong đó mạch chủ (artery) bị phình ra do một vết thương hay yếu tố di truyền. Đây là một tình trạng nguy hiểm và có thể gây chảy máu nặng và tổn thương tới các cơ quan và mô xung quanh. Khi một phình động mạch chủ bị vỡ, nó có thể gây chứng ngất, đau đầu nghiêm trọng và nguy hiểm đến tính mạng. Để điều trị phình động mạch chủ, thường được sử dụng các phương pháp phẫu thuật hoặc tiêm chất gây co cắt (coiling) vào phình mạch.
Phình động mạch chủ là một sự mở rộng không bình thường của tường mạch chủ do yếu tố di truyền, bệnh lý mạch máu, hoặc tổn thương. Phình động mạch chủ có thể xuất hiện ở bất kỳ vị trí nào trong hệ mạch chủ, nhưng thường thấy ở các vị trí như mạch sọ não, cơ tim, bụng, đùi, hoặc lưng.

Phình động mạch chủ có thể gây ra nhiều biến chứng, như chảy máu, tạo thành cục máu đông (thrombus) trong mạch, hoặc nghẹt mạch. Khi phình động mạch chủ vỡ, nó gây chảy máu trong hoặc xung quanh nơi tạo thành phình, gây ra những triệu chứng cụ thể.

Triệu chứng của phình động mạch chủ thường biểu hiện dưới dạng đau đầu, đau mắt, chóng mặt, mất thị lực, khó chịu hoặc yếu cơ, hoặc rối loạn cảm giác. Tùy thuộc vào vị trí và mức độ phình, triệu chứng có thể thay đổi từ nhẹ đến nặng và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng.

Để chẩn đoán phình động mạch chủ, bác sỹ thường sử dụng các phương pháp hình ảnh như siêu âm Doppler, CT scan, MRI, hoặc chụp X-quang mạch chủ. Nếu được phát hiện sớm, thì phình động mạch chủ có thể được quản lý và điều trị.

Phương pháp điều trị phình động mạch chủ thường bao gồm:

1. Phẫu thuật: Loại bỏ phình và tái tạo lại mạch chủ bằng cách đặt một ống hoạt động nhân tạo (stent) hoặc khâu nội soi.

2. Co cắt mạch (coiling): Cắm một dây kim loại mềm vào mạch phình để ngăn chặn dòng máu chảy vào và tạo thành cục máu đông, từ đó giảm nguy cơ vỡ phình.

3. Quản lý dược phẩm: Sử dụng thuốc để kiểm soát áp lực máu, giảm nguy cơ vỡ phình và chảy máu.

Điều quan trọng là phát hiện sớm phình động mạch chủ và tìm kiếm sự can thiệp y tế ngay lập tức. Những biện pháp phòng ngừa bao gồm duy trì một lối sống lành mạnh, kiểm soát áp lực máu, và tránh những yếu tố nguy cơ như hút thuốc lá, uống rượu quá mức, và căng thẳng tâm lý.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "phình động mạch chủ":

Prostaglandins và Viêm nhiễm Dịch bởi AI
Arteriosclerosis, Thrombosis, and Vascular Biology - Tập 31 Số 5 - Trang 986-1000 - 2011

Prostaglandin là những autacoid lipid được dẫn xuất từ axit arachidonic. Chúng vừa duy trì các chức năng cân bằng nội môi, vừa điều hòa các cơ chế bệnh lý, bao gồm phản ứng viêm. Prostaglandin được sinh tổng hợp từ acid arachidonic dưới tác động của các isoenzyme cyclooxygenase, và quá trình sinh tổng hợp của chúng bị ức chế bởi các thuốc giảm viêm không steroid, bao gồm cả những thuốc chọn lọc ức chế cyclooxygenase-2. Mặc dù các thuốc giảm viêm không steroid có hiệu quả lâm sàng, prostaglandin có thể đóng vai trò trong cả việc thúc đẩy và giải quyết viêm. Bài tổng quan này tóm tắt những hiểu biết về cơ chế sinh tổng hợp prostaglandin và vai trò của các chất trung gian riêng lẻ và các thụ thể của chúng trong việc điều chỉnh phản ứng viêm. Sinh học prostaglandin có liên quan lâm sàng tiềm năng đối với xơ vữa động mạch, đáp ứng với chấn thương mạch máu và phình động mạch chủ.

#Prostaglandin #viêm #ức chế cyclooxygenase #thuốc giảm viêm không steroid #sinh học prostaglandin #xơ vữa động mạch #chấn thương mạch máu #phình động mạch chủ.
Cấu trúc vi mô của sợi elastin và collagen trong động mạch chủ người khi lão hóa và bệnh lý: một bài tổng quan Dịch bởi AI
Journal of the Royal Society Interface - Tập 10 Số 83 - Trang 20121004 - 2013

Bệnh lý động mạch chủ là một nguyên nhân quan trọng gây tử vong ở các quốc gia phát triển. Các hình thức phổ biến nhất của bệnh lý động mạch chủ bao gồm phình động mạch, bóc tách, tắc nghẽn do xơ vữa động mạch và sự cứng lại do lão hóa. Cấu trúc vi mô của mô động mạch chủ đã được nghiên cứu với sự quan tâm lớn, vì việc thay đổi số lượng và/hoặc kiến trúc của các sợi kết nối (elastin và collagen) trong thành động mạch chủ, trực tiếp ảnh hưởng đến tính đàn hồi và sức mạnh, có thể dẫn đến những thay đổi cơ học và chức năng liên quan đến những tình trạng này. Bài viết tổng quan này tóm tắt những tiến bộ trong việc đặc trưng hóa cấu trúc vi mô của các sợi kết nối trong thành động mạch chủ người trong quá trình lão hóa và bệnh lý, đặc biệt nhấn mạnh đến động mạch chủ ngực lên và động mạch chủ bụng, nơi mà các hình thức bệnh lý động mạch chủ phổ biến nhất thường xảy ra.

#Bệnh lý động mạch chủ #phình động mạch #bóc tách #xơ vữa động mạch #elastin #collagen #lão hóa #cấu trúc vi mô
Hiệu suất tốt của tiêu chí của Hội đồng Y khoa di truyền và Genomics Hoa Kỳ/Hiệp hội GiPath học phân tử trong việc dự đoán khả năng gây bệnh của các biến thể di truyền gây ra phình đại động mạch chủ ngực và tách mạch Dịch bởi AI
Journal of Translational Medicine - Tập 20 Số 1 - 2022
Tóm tắt Đặt vấn đề

Sự xác định các biến thể gây bệnh ở bệnh nhân mắc chứng phình động mạch chủ ngực và tách mạch (TAAD) trước đây được tìm thấy là một chỉ số quan trọng chỉ ra nhu cầu can thiệp phẫu thuật sớm hơn. Để đánh giá các phương pháp có sẵn trong việc phân loại các biến thể di truyền đã được xác định, chúng tôi đã so sánh sự sống sót không có sự kiện trong một nhóm bệnh nhân TAAD được phân loại là kiểu gen dương tính và kiểu gen âm tính theo tiêu chí của Hội đồng Y khoa di truyền và Genomics Hoa Kỳ và Hiệp hội GiPath học phân tử (ACMG-AMP) hoặc theo cơ sở dữ liệu ClinVar.

Phương pháp

Chúng tôi đã phân tích một nhóm bệnh nhân chưa được báo cáo trước đây gồm 132 bệnh nhân được kiểm tra trong môi trường lâm sàng thông thường để phát hiện các biến thể di truyền trong một bộ gen tùy chỉnh gồm 30 gen liên quan đến TAAD hoặc bộ gen thương mại TruSight Cardio gồm 174 gen liên quan đến bệnh tim. Các biến thể được xác định đã được phân loại sử dụng nền tảng VarSome. Các đường cong sống sót Kaplan-Meier đã được xây dựng để so sánh sự sống sót không có sự kiện giữa các đối tượng được xác định là 'kiểu gen dương tính' và 'kiểu gen âm tính' bằng cách sử dụng các phân loại khác nhau để so sánh hiệu suất của chúng.

Kết quả can thiệp nội mạch cấp cứu điều trị vỡ phình động mạch chủ ngực đoạn xuống
Đặt vấn đề: Vỡ phình động mạch chủ ngực đoạn xuống là bệnh cảnh cấp cứu nguy hiểm có tỷ lệ tử vong rất cao nếu không điều trị kịp thời. Can thiệp nội mạch hiện được xem là phương pháp điều trị có hiệu quả, ít xâm lấn tại nhiều trung tâm mạch máu trên thế giới. Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá hiệu quả của can thiệp cấp cứu đặt stent graft trong điều trị vỡ phình động mạch chủ ngực đoạn xuống tại khoa Phẫu thuật Mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả hàng loạt ca với 31 bệnh nhân có bệnh lý động mạch chủ được can thiệp cấp cứu đặt stent graft từ tháng 05/2012 đến tháng 12/2019 tại khoa Phẫu thuật Mạch máu bệnh viện Chợ Rẫy. Kết quả: Nghiên cứu có 31 bệnh nhân, nam giới chiếm 80,7 %, tuổi trung bình là 64 ± 15,1. Thời gian theo dõi trung bình là 18,6 tháng. Tỷ lệ chuyển vị các nhánh động mạch nuôi tạng và động mạch trên quai động mạch chủ để có vùng hạ đặt ống ghép thích hợp là 12,9 %, tỷ lệ phủ động mạch dưới đòn trái là 29 %, tỷ lệ gây tê tại chỗ 38,8 %. Tỷ lệ bung ống ghép thành công là 100%. Tỷ lệ tử vong chu phẫu và trung hạn lần lượt là 6,4 % và 31%. Về biến chứng liên quan đến kỹ thuật sau 30 ngày, chúng tôi ghi nhận có 6 trường hợp rò ống ghép loại II nhưng không trường hợp nào cần can thiệp lại, có 1 trường hợp rò ống ghép thực quản tử vong do nhiễm trùng huyết, 1 trường hợp vỡ túi phình do tăng kích thước túi phình trong thời gian theo dõi Kết luận: Can thiệp cấp cứu đặt stent graft điều trị vỡ phình động mạch chủ ngực đoạn xuống là phương pháp mới an toàn, hiệu quả, thực hiện nhanh, ít xâm lấm, có tỷ lệ thành công cao và tỷ lệ biến chứng thấp. Từ khóa: stent graft, vỡ phình động mạch chủ ngực động xuống, can thiệp cấp cứu
#stent graft #vỡ phình động mạch chủ ngực động xuống #can thiệp cấp cứu
Sự thay đổi kích thước khối phình động mạch chủ bụng và một số yếu tố liên quan sau can thiệp đặt Stent Graft
Nhằm đo đạc các đặc điểm hình thái của động mạch chủ bụng và các yếu tố nguy cơ gây thay đổi kích thước của động mạch chủ bụng sau can thiệp đặt stent graft. Từ tháng 1 - 2018 đến 9 - 2019, 46 bệnh nhân được can thiệp đặt stent graft động mạch chủ bụng, được tiến hành đo đạc các kích thước động mạch chủ theo quy trình. Các bệnh nhân được theo dõi sau 1 năm can thiệp, các biến cố được ghi nhận đầy đủ theo hồ sơ nghiên cứu. Bệnh nhân thường gặp nhất là 60 – 80 tuổi (65,2%), chiều dài cổ trung bình là 33,9 ± 11 mm, đường kính cổ (ngang mức động mạch thận thấp hơn) là 21,2 ± 0,3 mm, đường kính cổ (dưới động mạch thận thấp hơn 10 mm) là 21,1 ± 0,4 mm. Gập góc tại cổ khối phình là 23,0 ± 13,9 mm. Chiều dài khối phình trung bình là 94,2 ± 13 mm, đường kính khối phình tối đa đo được trung bình là 60,4 mm. Sau 12 tháng: kích thước tối đa khối phình: có 14,3% (6 bệnh nhân) xuất hiện tăng kích thước khối phình; 47,6% (20 bệnh nhân) giảm trên 5mm; 38,1% (16 bệnh nhân) có kích thước tối đa khối phình giảm từ 0 đến 5 mm. Tỉ lệ tử vong trong nghiên cứu này là 8,7% (4 bệnh nhân). Tỉ lệ endoleak typ II vào tuần thứ nhất sau can thiệp và sau 12 tháng theo dõi lần lượt là 17,4% (9 bệnh nhân) và 9,5% (4 bệnh nhân). Tuổi cao là yếu tố làm tăng nguy cơ xuất hiện gia tăng kích thước khối phình sau can thiệp.
#phình động mạch chủ bụng #can thiệp nội mạch động mạch chủ.
Nghiên cứu đặc điểm hình thái phình mạch máu não và đánh giá kết quả ngắn hạn can thiệp đặt stent chuyển hướng dòng chảy điều trị phình mạch máu não
Mục tiêu: Đánh giá đặc điểm hình thái phình mạch máu não. Kết quả ngắn hạn can thiệp điều trị phình mạch máu não bằng stent chuyển hướng dòng chảy. Đối tượng và phương pháp: Gồm 227 bệnh nhân được điều trị bằng stent chuyển hướng dòng chảy từ tháng 12 năm 2011 đến tháng 08 năm 2019. Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu, theo dõi dọc theo thời gian để đánh giá kết quả điều trị. Kết quả: 227 bệnh nhân với 239 phình mạch máu não. Tuổi trung bình 50,2 ± 12,1 tuổi, nữ giới chiếm 71,4%. Phình mạch dạng túi chiếm chủ yếu 94,15% với tỉ lệ thân túi trên cổ túi < 1,5 là 89,8%. Vị trí phình mạch thuộc tuần hoàn trước chiếm 95,6%. Đa phần phình mạch có kích thước nhỏ và trung bình, phình kích thước lớn và phình khổng lồ > 25mm có 8,8%. Kỹ thuật đặt stent chuyển hướng dòng chảy được thực hiện thành công cho 99,56% bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu. Stent đặt đúng vị trí, nở tốt và áp sát thành đạt 92,8%. Đọng thuốc trong tổn thương phình mạch sau đặt stent chuyển hướng dòng chảy là 75,6%. Tỷ lệ biến chứng sau can thiệp 4,4%, 01 trường hợp tử vong liên quan đến kỹ thuật chiếm 0,4%. Tỷ lệ phình mạch tắc hoàn toàn sau 3 tháng đến 6 tháng lần lượt là 57,83% và 84,37%. Tỷ lệ tái hẹp mức độ nhẹ trong stent không kèm triệu chứng lâm sàng là 4,9%. Kết luận: Can thiệp đặt stent chuyển hướng dòng chảy điều trị phình mạch máu não có hiệu quả cao và tương đối an toàn.
#Phình mạch máu não #can thiệp mạch máu não #stent chuyển hướng dòng chảy
Điều trị biến chứng thứ phát cầu nối động - tĩnh mạch dùng chạy thận chu kì
Mở đầu: Cầu nối động – tĩnh mạch dùng chạy thận nhân tạo chu kỳ rất phổ biến. Biến chứng cầu nối ngày càng phức tạp, gây tử vong. Mục tiêu nghiên cứu: Đặc điểm biến chứng thứ phát cầu nối động-tĩnh mạch. Kết quả xử trí. Đối tượng và phương pháp: hồi cứu mô tả loạt ca biến chứng cầu nối động-tĩnh mạch được phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch từ 06/2020 đến 06/2023 tại bệnh viện Thống Nhất. Kết quả: 81 bệnh nhân, nam chiếm 54%, tỉ lệ nam/nữ 1,19/1. Trước phẫu thuật: suy cầu nối (43), tăng lưu lượng (13), phình mạch (7), nhiễm trùng (9) và tắc hẹp tĩnh mạch đường về (8). Thời gian xử trí trung bình 92,8 + 45 phút. Kết quả tốt ra viện có 56 trường hợp, sau 12 tháng có 44 trường hợp. Biến chứng sau xử trí: tắc cầu nối (07), hẹp miệng nối (07), nhiễm trùng vết mổ (07). Nhóm suy cầu nối chiếm đa số. Kết luận: có nhiều biến chứng, hay gặp là suy cầu nối. Kết quả sau xử trí tốt có 56 trường hợp (ra viện), 44 trường hợp (sau 12 tháng).
#phẫu thuật tạo cầu nối mạch máu #avf #suy cầu nối #phình mạch
Đánh giá kết quả trung hạn điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận bằng can thiệp nội mạch
Mục tiêu: Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá kết quả trung hạn ứng dụng kỹ thuật can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả dọc tiến cứu. Đối tượng là bệnh nhân phình động mạch chủ bụng dưới thận có kèm hoặc không kèm theo phình động mạch chậu tại khoa Phẫu thuật Mạch máu Bệnh viện Chợ Rẫy, trong thời gian từ tháng 5/2012 đến tháng 8/2017 được điều trị bằng can thiệp nội mạch. Kết quả: Có tất cả 95 trường hợp (71 nam và 24 nữ) đủ tiêu chuẩn đưa vào nghiên cứu. Tuổi trung bình là 73,8 ± 17,6 tuổi. Thời gian theo dõi trung bình là 33 ± 19 tháng. Tỷ lệ rò nội mạch muộn là 6,3%. Không có trường hợp nào di lệch ống ghép, 6 trường hợp cần can thiệp lại. Tỷ lệ tử vong trung hạn là 21,1% trong đó có 2 trường hợp (2,1%) tử vong liên quan đến túi phình. Kết luận: Tỷ lệ tử vong trung hạn và tỷ lệ can thiệp lại trung hạn của can thiệp nội mạch động mạch chủ đều ở mức ngang bằng hoặc cao hơn so với phẫu thuật mở. Như vậy, can thiệp nội mạch động mạch chủ rất có lợi trên những bệnh nhân lớn tuổi, nhiều bệnh kèm và yếu tố nguy cơ.
#phình động mạch chủ bụng dưới thận #điều trị nội mạch phình ĐMCB #ống ghép nội mạch
KẾT QUẢ SỚM SAU CAN THIỆP ĐẶT ỐNG GHÉP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ NGỰC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 504 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá kết quả sớm sau can thiệp đặt ống ghép nội mạch điều trị phình động mạch chủ ngực tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 80 bệnh nhân phình động mạch chủ ngực được điều trị can thiệp đặt ống ghép nội mạch dưới hướng dẫn của máy DSA hoặc C-arm tại bệnh viện Chợ Rẫy, từ tháng 08/2013 đến tháng 09/2018. Kết quả: 72,50% bệnh nhân đặt 1 ống ghép; 27,50% cần từ 2 đến 3 ống ghép. Không có tai biến liên quan cấu trúc ống ghép trong quá trình can thiệp. Có 3 trường hợp tử vong sớm (3,75%), 2 trường hợp chảy máu phải mổ lại (2,50%), 4 trường hợp nhồi máu não (5,0%) và 2 trường hợp suy thận cần chạy thận nhân tạo (2,50%). Có 2 trường hợp rò nội mạch loại IA, 1 trường IB, 3 trường hợp rò nội mạch loại II. Hai nhóm không có khác biệt về tử vong và tai biến, biến chứng sớm. Kết luận: chủ yếu BN được can thiệp đặt 1 ống ghép. Các tai biến, biến chứng sau can thiệp có tỷ lệ thấp.
#Kết quả sớm #ghép nội mạch #phình động mạch chủ ngực
KẾT QUẢ PHẪU THUẬT, CAN THIỆP NỘI MẠCH ĐIỀU TRỊ PHÌNH ĐỘNG MẠCH CHỦ BỤNG DƯỚI THẬN CÓ KẾ HOẠCH TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VIỆT ĐỨC GIAI ĐOẠN 2018 - 2020
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 523 Số 1 - 2023
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả sớm, trung hạn các bệnh nhân được phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận có kế hoạch tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn 2018 – 2020. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc trên nhóm bệnh nhân đã được phẫu thuật hoặc can thiệp nội mạch mạch điều trị phình động mạch chủ bụng dưới thận có kế hoạch tại Trung tâm Tim mạch và Lồng ngực, Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức giai đoạn 01/01/2018 đến 31/12/2020. Kết quả: Có 37 bệnh nhân can thiệp (CT) nội mạch và 62 bệnh nhân được phẫu thuật (PT) với độ tuổi trung bình lầnlượt là: 72,96 ± 6,58 (61-86) và 67,11 ± 1,27 (36– 82) tuổi, tỷ lệ nam lần lượt là 30 (81,1%), 45 (72,6%). Lâm sàng tự sờ thấy có khối đập vùng bụng gặp ở 91,9% (34) bệnh nhân CT và 72,6% (45) bệnh nhân PT, phình hình thoi chiếm đa số và có tỉ lệ 37(100%) ở nhóm CT, 59(95,2%) ở nhóm PT. Về kết quả sớm: nhóm CT có 1(2,7%) bệnh nhân tử vong, nhóm PT không có bệnh nhân tử vong. Các biến chứng sớm sau CT: Rò sau khi đặt stent graft 8(21,6%), rò sau 30 ngày 3(8,1%), tụ dịch đường vào 1(2,7%), biến chứng suy thận cấp1(2,7%). Biến chứng sớm sau PT: Tụ dịch/máu sau phúc mạc 6(9,7%), suy thận 6(9,6%), viêm phổi 3(4,8%), nhiễm trùng vết mổ 2(3,2%), viêm tụy cấp 1(1,6%), hoại tử đại tràng 1(1,6%). Về kết quả trung hạn: có 32(86,5%) bệnh nhân CT và 57(91,9%) bệnh nhân PT được theo dõi, thời gian theo dõi trung bình lần lượt là: 28,7±2,1 (24,4-32,9) tháng ở nhóm CT và 25,7±1,74 (22,2-29,1) tháng ở nhóm PT. 26(81,2%) bệnh nhân CT và 46(80,7%) bệnh nhân PT có kết quả tốt, Các bệnh nhân còn lại có kết quả trung bình. 5(15,6%) nhóm CT và 5(8,8%) bệnh nhân nhóm PT tử vong trong quá trình theo dõi. Tỷ lệ sống còn sau 1 năm ở bệnh nhân nhóm CT là 84,9%, nhóm PT là 96,4% và không thay đổi trong qua trình theo dõi. Kết luận: CT và PT phình động mạch chủ bụng dưới thận tại bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho kết quả tốt, với tỉ lệ tai biến biến chứng thấp. Hiện kết quả PT cả sớm và trung hạn tốt hơn nhóm CT nội mạch đặt stent graft
#Phình động mạch chủ bụng #can thiệp nội mạch #phẫu thuật #Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức
Tổng số: 102   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10